KHÔNG ĐÒI ĐƯỢC TIỀN VAY DO KHÔNG CÓ BIÊN NHẬN TIỀN
Автор: Luật sư tố tụng
Загружено: 2025-05-16
Просмотров: 66
Xin chào Quý vị, sau đây Luật Cộng Đồng Vạn Tín xin giới thiệu đến Quý vị về việc “không công nhận hợp đồng vay tiền do không có biên nhận tiền” trong Bản án số 997/2004/DS-ST ngày 12/11/2024 của Tòa án nhân dân quận TP, Bản án sơ thẩm này chưa có hiệu lực do nguyên đơn kháng cáo.
Vấn đề chúng ta cần rút kinh nghiệm là: Khi ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản, hợp đồng vay thì biên bản giao nhận tiền cực kỳ quan trọng, người nhận phải ghi rõ “tôi đã nhận đủ số tiền là 5 tỷ chẳng hạn”.
Chúng tôi xin trích dẫn một đoạn nhận định trong Bản án
Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
“Xét, nội dung Giấy mượn tiền ngày 01/01/2022 thể hiện bà P có mượn của ông T số tiền 1.100.000.000 đồng, thời hạn trả nợ là ngày 01/5/2022. Bà P. xác nhận có viết và ký tên tại Giấy mượn tiền ngày 01/01/2022 nhưng theo sự ép buộc của ông T. Nguồn gốc số tiền nợ 1.100.000.000 đồng là do ông T cộng tiền lãi của Giấy nợ ngày 24/3/2021 và yêu cầu bà viết giấy nợ ngày 01/01/2022, thực tế thì ông T không có giao số tiền 1.100.000.000 đồng cho bà.
Xét, Biên bản đối chất ngày 01/7/2024 và tại phiên tòa ngày 08/11/2024, các bên trình bày về quá trình giao nhận tiền thì đại diện ông T xác nhận ông T giao tiền trực tiếp cho bà P sau khi ký giấy nợ nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh cho việc giao tiền như: không nhớ mệnh giá tiền, số lượng tiền đã giao, không yêu cầu bà P kỳ xác nhận đã nhận tiền. Người chứng kiến việc giao nhận tiền là bà Trần Thị Mỹ H, hiện đã chết nên không xác minh được. Căn cứ Khoản 1 Điều 465 Bộ luật dân sự năm 2015 thì nghĩa vụ của bên vay (ông T) là "Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận". Do ông T không cung cấp chứng cứ chứng minh đã giao tiền cho bà P và bà P không thừa nhận đã nhận tiền nên căn cứ Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự thì ông T phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình nhưng ông T không chứng minh được nên không có cơ sở xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.”
Để quý vị tiện theo dõi, chúng tôi xin giới thiệu Điều luật
Điều 465 BỘ LUẬT DÂN SỰ: . Nghĩa vụ của bên cho vay
1. Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận.
2. Bồi thường thiệt hại cho bên vay, nếu bên cho vay biết tài sản không bảo đảm chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó.
3. Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 470 của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan quy định khác.
Chương VII BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SƯ: CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ
Điều 91. Nghĩa vụ chứng minh
1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
XIN CÁM ƠN QUÝ VỊ ĐÃ QUAN TÂM THEO DÕI.
Доступные форматы для скачивания:
Скачать видео mp4
-
Информация по загрузке: